12 A 1 khóa 5

12 A 1 khóa 5

Thứ Tư, 7 tháng 9, 2011

Thơ của cha

LŨ TRÊN QUÊ MÌNH
-Phan Túy-
(Hiệu trưởng Trường Nguyễn Thị Bích Châu – Kỳ Anh)

Lũ quê mình lịch sử
Cua bò trên mái nhà
Người chìm trong dòng đục
Nước ngập tràn xót xa

Lũ ngày trước chưa ra
Lũ hôm nay ập tới
Bao xóm làng chìm nổi
Núi lở, đập nước tràn

Bùn ngập tràn mái hiên
Của theo dòng ra biển
Cả đời người cần kiệm
Nước trắng xóa bàn tay

Đất quê ta giờ đây
Câu chuyện xưa hiện lại
Chàng Sơn Tinh dâng núi
Quyết thắng giặc Thủy Tinh

Em ơi quê hương mình
Lũ cứ chồng lên lũ
Cả gió lào bão tố
Kể sao hết thiên tai

Cả đất nước hôm nay
Truyền thống xưa trỗi dậy
Tình thương lòng nhân ái
Chia sẻ nỗi đau thương

Ngày hôm nay đến trường
Lòng hướng về vùng lũ
Bạn bè ta nơi đó
Những ai mất ai còn

Một chút quà cỏn con
Sưởi ấm lòng bè bạn
Trong khó khăn hoạn nạn
Cho thấu tận lòng nhau
Tháng 10/2010

12 A thuyết trình

Bài thuyết trình của nhóm1

Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã "Thủ đô gió ngàn" về với "Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình". Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân - hạ - thu - đông.



Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:

"Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"

Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này.Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ.

bức tranh mùa đông

Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người.Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.

Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:

" Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng "

Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa,vừa cổ điển vừa hiện đại.Cái màu "đỏ tươi" - gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng.

Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

" Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương "

Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.

Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến

"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng" .

Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất - " đèo cao". Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do " Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta". Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

bức tranh mùa xuân

Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy:

" Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang "

Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu ngọt của hoa mơ . Động từ "nở" làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống.

Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:

" Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ "

Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động " chuốt từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.

bức tranh mùa hè

Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:

" Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình "

Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ "đổ" là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của lá phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây Phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.

Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: "Nhớ cô em gái hái măng một mình". Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.

bức tranh mùa thu

Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung lunh dịu dàng :

"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình dọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:

"Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về"

Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.

Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.

tổng kết

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

Đây là đoạn thơ đặc sắc trong bài thơ “Việt Bắc” nổi tiếng của Tố Hữu. Đoạn thơ đã diễn tả được tình cảm nhớ thương Việt Bắc sâu nặng của người cán bộ kháng chiến khi rời Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội.

Ngôn ngữ uyển chuyển, ngọt ngào. Những từ “ta”, “mình” được nhà thơ sử dụng có ý nghĩa mới. Những từ vón rất riêng được Tố Hữu dùng với nghĩa chung, khiến cho cái chung có sứ rung động lạ thường. Nhạc điệu của câu thơ lục bát êm đềm có sức ngân vang trong lòng người đọc như một khúc hát ru kỉ niệm. Điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần với nhiều cấp độ khác nhau tăng cường nhạc điệu du dương của đoạn thơ và nhấn mạnh được nỗi lòng lưu luyến của tác giả với chiến khu, với cảnh, với người Việt Bắc. Đặc biệt hơn cả là trong tâm tưởng của người ra vè in sâu hình ảnh sắc màu của bức tranh tứ bình tươi sáng rực rỡ thơ mộng.

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2011

Cha tôi, một người thầy

Nhiều người cho rằng sống trung thực dường như phải chịu quá nhiều thiệt thòi và mất mát. Tôi không phản đối, nhưng với tôi, sống trung thực cũng “được” rất nhiều. Cái được đôi khi không nhìn thấy ngay trước mắt, nó vô hình, vì thế mà nhiều khi chúng ta thấy nản chí chăng?
Tôi muốn lấy ngay trường hợp của cha tôi làm minh chứng. Cha tôi là một giáo viên, đã làm hiệu phó từ rất trẻ nhưng 20 năm nay vẫn chỉ là hiệu phó, có lẽ không phải vì cha không có năng lực mà bởi cha quá trung thực, ngay thẳng. Không bao giờ ông nhận quà cáp, tiền bạc của phụ huynh học sinh. Tôi nhớ vào những mùa thi, có nhiều phụ huynh đến xin cho con học, cha tôi ngại vì từ chối nhiều quá nên lánh mặt. Có phụ huynh gửi thư lại. Phụ huynh về, cha tôi mở phong bì thấy có tiền lập tức đạp xe đuổi theo trả lại bằng được.
Làm hiệu phó, ông thẳng thắn nói ra những việc làm không đúng, sai trái của hiệu trưởng, vì thế khi hiệu trưởng về hưu đưa một tổ trưởng lên kế nhiệm, cha tôi vẫn là hiệu phó.
20 năm sau, sở GD-ĐT đề nghị cha tôi lên làm hiệu trưởng. Nhưng vì nhiều lý do, người cuối cùng sẵn sàng ra đi làm nhiệm vụ mới lại là cha tôi.
Cha làm như thế cuối cùng được gì? Ai quen đều bảo cha tôi có một cuộc đời trong sạch, một gia đình nề nếp, gia giáo mà từ học trò đến bà con họ hàng ai cũng khâm phục, kính nể. Bốn anh em chúng tôi ai cũng trưởng thành và thành đạt bằng chính năng lực của mình.
Anh em chúng tôi luôn nhìn vào cha để sống, để tâm hồn được thanh thản. Hạnh phúc nào, cái được nào có thể hơn điều đó hả các bạn!
(Bài viết đăng trên báo Tuổi trẻ)

Hiệp sĩ Sainte Hermine

Một ngày đầu tháng 6, những cơn mưa đầu mùa làm cho đất trời trở nên ẩm ướt, cảm giác thèm được ngồi bên khung cửa nhìn mưa rơi và đọc 1 cuốn sách hay. Chạy ào vào nhà sách cầm lên cuốn Kiếp sau của Macr Levy, nhân tiện mua lại bộ Những người khốn khổ cho đủ bộ sưu tập. Đang mặc cả với người bán hàng thì một người đàn ông trung niên chen vào “Cô cần phải xem chất lượng in và tùy vào thời điểm mới có giảm giá đấy cô ạ. Bộ Những người khốn khổ chắc sắp được xuất bản lại rồi đấy vì người ta vừa mới tìm thấy chương cuối của nó”. Ồ, thật ngạc nhiên vì có một người am hiểu sách đến thế “Chú là chủ nhà sách ạ” “Không, tôi chỉ thường đến đọc sách ở đây thôi. Cô nên mua cuốn Hiệp sĩ Sainte Hermine, cuốn đó đang giảm 50% đấy. Một cuốn sách nên đọc và đáng để đọc, nhất là đối với những ai đã từng yêu mến Alexandre Dumas. Đây là cuốn sách cuối cùng của ông mà người ta mới tìm thấy”. Nhân duyên đưa tôi đến với Hiệp sĩ Sainte hermine là vậy. Cầm cuốn sách khổ lớn, dày hơn 700 trang, chữ nhỏ, không nhiều thoại (như những cuốn khác của Dumas khi ông dùng “tiểu xảo” để lấy được nhiều nhuận bút của các tòa soạn báo). Không có nhiều thời gian rảnh mà ôm cuốn này cũng thấy hơi ngại. Thế nhưng cảm giác đó sẽ qua rất nhanh và chúng ta sẽ thấy thật không quá khi nói rằng đây là cuốn sách “hay đến mức không thể tả nổi”
Sự thật khi tôi viết những dòng này, tôi chưa đọc xong cuốn sách, thế nhưng những cảm xúc và ấn tượng về cuốn sách mạnh mẽ đến nỗi đã thôi thúc tôi buộc tôi phải viết lên đây cho những ai yêu sách mà chưa biết đến cuốn sách này thì hãy cùng đồng hành với tôi khám phá hết hơn 700 trang sách để thấy hết những nhân vật vừa rất đời, rất thực trong lịch sử, vừa mang sự huyền hoặc của sự hư cấu thêm của thiên tài Dumas. Dựa trên nền tảng lịch sử nước Pháp phong phú mà Dumas đã dày công sưu tầm, ông đã dựng nên cả một nước Pháp đang vặn mình chuyển từ chế độ bảo hoàng sang cộng hòa với bao nhiêu mẫu thuẫn trong lòng nó. Lấy bối cảnh lịch sử, chính trị nước Pháp nhưng cuốn sách không hề khô khan mà trái lại người đọc vẫn thấy cảm hứng lãng mạn kiểu Alexandre Dumas xuyên suốt tác phẩm, những chàng hiệp sĩ hào hoa, những nàng tiểu thư đài các, những vũ hội rực rỡ, những chuyện tình say đắm và đầy ngang trái. Đó là nàng tiểu thư Hortense kiều diễm đem lòng yêu chàng cận vệ của cha mình nhưng cuối cùng phải thuận theo ý mẹ lấy người khác. Đó là nàng Claire xinh đẹp tuyệt vời đêm lòng yêu chàng trai rất bí ẩn mang dòng họ Sainte-Hermine. Cả hai người con gái trước những xao xuyến của con tim và những lựa chọn của lý trí không biết phải làm sao vì thế hai người đã tìm đến bà bói
Bà bói vô cùng kinh ngạc khi cô lật các tờ bài của mình lên và cuối cùng bà chỉ nói với cô 1 câu “Cô sẽ là quả phụ của người sống trong 14 năm, phần đời còn lại là vợ của kẻ đã chết”. Trong ngày cưới của mình với chàng hiệp sĩ Sainte, đến thời điểm đặt bút ký giấy kết hôn, chàng Sainte Hermine có người đến và buộc phải đi,… nàng Claire đau đớn khóc ngất lên “ôi, mẹ ơi, mẹ ơi…thế là lời tiên đoán của thầy bói đã đúng và quãng đời góa bụa của con đã bắt đầu rồi”.
…Khi viết tiếp những dòng này cũng là lúc cuốn sách tôi đọc đã đi về những trang cuối, không thể nói gì hơn ngoài câu “cuốn sách hay một cách không thể tả”. Chàng Sainte Hermine đã thể hiện ngòi bút đầy ma lực của Alexandre Dumas trong việc xây dựng những trang hiệp sĩ làm say đắm lòng người đọc yêu văn ông.
Hãy đọc và cảm nhận để được đắm chìm vào trong những trang văn mê hồn của Dumas, để được sống với không khí của những vũ hội xa hoa của giới quý tộc, để được phiêu linh trong chuyện tình kinh điển và mạo hiểm cùng với những chuyến đi của chàng chàng hiệp sĩ Sainte Hermine.